Thời trẻ Mạnh_Củng

Mạnh Củng sinh ra trong một gia đình tướng lĩnh. Ông cố Mạnh An là bộ tướng của Nhạc Phi, ông nội Mạnh Lâm cũng thuộc Nhạc gia quân, theo quân đến Tùy Châu[2], định cư ở Táo Dương[2]. Cha là Mạnh Tông Chính, danh tướng kháng Kim, nhiều năm trấn thủ Táo Dương.

Từ năm Gia Định thứ 10 (1217), Mạnh Củng theo cha đánh nhau với quân Kim, nhờ chiến công mà bước vào quan trường. Năm Gia Định thứ 14 (1221), ông nhậm chức Quang Hóa[3] huyện úy. Năm Bảo Khánh đầu tiên (1225), ông được thăng làm Hạp Châu[4] binh mã giám áp kiêm Tuần kiểm ở trong thành. Năm thứ 3 (1227), ông đổi làm Kinh Tây đệ ngũ phó tướng, quyền Thần Kính quân thống chế, trở về Táo Dương nhậm chức.

Khi Mạnh Tông Chính còn sống, đã chiêu mộ hơn 2 vạn tráng sĩ ở 3 châu Đường[5], Đặng [6], Thái[7] trong nội địa nước Kim, biên chế làm “Trung Thuận quân”. Sau khi Mạnh Tông Chính qua đời, đội quân này được giao cho Giang Hải, quân tình không yên, lúc này triều đình giao lại cho Mạnh Củng. Ông chia “Trung Thuận quân” làm 3 quân, quân tình được an định.

Năm Thiệu Định đầu tiên (1228), ông cho sửa sang những đập đất mà quân Kim đã làm ở phía tây ngoài thành Táo Dương, tưới nước cho 10 vạn mẫu ruộng, do Trung Thuận quân và dân chúng thay nhau coi giữ; đồng thời mệnh cho mỗi nhà trong Trung Thuận quân nuôi ngựa, thóc cỏ sẽ do triều đình cung cấp; nhờ vậy lương thực đầy đủ, số ngựa tăng lên.

Năm sau (1229), Mạnh Củng được thăng làm Kinh Tây đệ ngũ chánh tướng, đóng quân ở Táo Dương, cai quản quân đồn trú bản địa và 3 cánh quân Trung Thuận, sau đó lần lượt được thăng làm Kinh Tây lộ binh mã đô giám, binh mã kiềm hạt.

Liên quan